Cần thiết phải rà soát sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng Tiết kiệm và hiệu quả đáp ứng thực tiễn
Bài toán cấp thiết
Kể từ khi các chỉ đạo
của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả nói chung, sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả nói riêng đi vào cuộc sống,
người dân, doanh nghiệp đã ý thức tốt hơn và thực thi được nhiều giải pháp tiết
kiệm năng lượng/tiết kiệm điện hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, việc quản lý
và khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng vẫn còn tồn tại những hạn
chế, dẫn đến hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng chưa cao, khiến các
nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu, phải nhập khẩu năng lượng ngày
càng lớn, cũng như nhiều dự án điện bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch…
Do đó, Nghị quyết số
55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược
phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ
môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã
hội; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến
khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng,
thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và đổi mới mô hình
tăng trưởng”.
Ông Đặng Hải Dũng - Phó
Chánh văn phòng Ban chỉ đạo Tiết kiệm điện và năng lượng, Bộ Công Thương trình
bày đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng TK&HQ
tại Hội nghị Tiết kiệm năng lượng toàn quốc năm 2022.
Đồng thời, tại khoản 1,
phần II, Nghị quyết 55-NQ/TW cũng đặt ra yêu cầu mới đổi mới cơ chế, chính
sách, phát triển thị trường hiệu quả năng lượng một cách đồng bộ với nhiệm vụ
hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường để đẩy mạnh sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm đáp ứng mục tiêu tỷ lệ tiết kiệm
năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển
bình thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045; Giảm
phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình
thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.
Ngoài ra, Nghị quyết số
55-NQ/TW cũng nêu rõ nhiệm vụ xây dựng các công cụ và giải pháp mới trong lĩnh
vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả bao gồm: Xây dựng các công cụ hỗ
trợ tài chính về thuế, đất đai, lãi vay, cơ chế bảo lãnh vay vốn cho doanh
nghiệp có các dự án về sử dụng năng lượng TK&HQ; xây dựng cơ sở pháp lý để
có thể hình thành và vận hành hiệu quả các quỹ về phát triển năng lượng bền
vững, thúc đẩy sử dụng năng lượng TK&HQ theo hướng xã hội hoá, bảo đảm độc
lập về tài chính, không trùng lặp với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà
nước và hạn chế việc làm tăng chi phí hoạt động, sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh; hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích đẩy
mạnh triển khai mô hình dịch vụ năng lượng.
Ngày 18/5/2022, Bộ Công
thương đã ban hành Công văn số 2682/BCT-TKNL về việc khảo sát, đánh giá thực
thi và xây dựng định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm
và hiệu quả. Đây sẽ là cơ sở để xây dựng các công cụ pháp lý tăng cường hỗ trợ
hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Đồng thời, tập trung xây
dựng các hành lang pháp lý trong việc đảm bảo chất lượng cho các dịch vụ tư
vấn, kiểm toán năng lượng, quản lý năng lượng, đào tạo để đảm bảo thị trường
vận hành minh bạch, hiệu quả.
Giải quyết vấn đề thực
tiễn
Để giải quyết các vấn đề
thực tiễn và luật hoá các quan điểm chỉ đạo mà Nghị quyết 55/NQ-TW đã đề ra,
tại Hội nghị “Tiết kiệm năng lượng toàn quốc năm 2022” do Bộ Công thương tổ
chức vào ngày 14/7/2022, ông Đặng Hải Dũng, Phó Chánh văn phòng Ban Chỉ đạo
Tiết kiệm năng lượng, Bộ Công Thương đã nhấn mạnh nhiệm vụ rà soát, sửa đổi, bổ
sung đối với Luật Sử dụng năng lượng TK&HQ, cụ thể:
Đối với các chính sách liên quan đến Quy định về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực sử dụng năng lượng TK&HQ tại cơ sở sử dụng năng lượng
(Điều 32, 33 và 34 Luật sử dụng năng lượng TK&HQ) cần: Xem xét điều chỉnh
mức sử dụng năng lượng đối với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm hiện
hành trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng dân dụng; bổ sung quy định cụ thể
về nghĩa vụ thực hiện các quy định của Luật đối với các cơ sở sử dụng năng
lượng trọng điểm cho phù hợp với tình hình hiện nay; Quy định chi tiết hơn (bắt
buộc) về việc xây dựng và áp dụng mô hình quản lý năng lượng tại các cơ sở sử
dụng năng lượng trọng điểm lĩnh vực công nghiệp xây dựng và giao thông vận tải;
Tăng cường trách nhiệm của địa phương trong việc kiểm tra tuân thủ các tiêu
chuẩn, quy chuẩn, định mức tiêu thụ năng lượng của các doanh nghiệp tại địa
phương.
Đối với các quy định
quản lý liên quan đến dịch vụ tư
vấn năng lượng, kiểm toán năng lượng, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực sử dụng
năng lượng TK7HQ (Điều 34, Điều 35, Điều 43 Luật Sử dụng năng lượng TK&HQ)
cần: Nghiên cứu, đề xuất các quy định chi tiết về điều kiện kinh doanh đối với
tổ chức hành nghề kiểm toán năng lượng theo quy định Luật sử dụng năng lượng
tiết kiệm hiệu quả và Luật Đầu tư kinh doanh 2020; Nghiên cứu xây dựng các cơ
chế hỗ trợ và hình thành hệ thống các Công ty dịch vụ năng lượng; Nghiên cứu
quy định về thời hạn của chứng chỉ Người quản lý năng lượng/Kiểm toán viên năng
lượng hoặc thời hạn đào tạo cập nhật kiến thức, giải pháp nhằm bảo đảm phát huy
được vai trò của Người quản lý năng lượng/Kiểm toán viên năng lượng tại doanh
nghiệp; Nghiên cứu xây dựng quy định về điều kiện đối với cơ sở đào tạo kiểm
toán năng lượng và quản lý năng lượng.
Đối với việc xây dựng
hành lang pháp lý, phát triển các công cụ thị trường tiết kiệm năng
lượng (Điều 41, Điều 42 Luật sử dụng năng lượng TKHQ) cần: Bổ sung mô hình
Quỹ Tiết kiệm năng năng lượng nhằm hỗ trợ các hoạt động của công ty Công ty
dịch vụ năng lượng, nghiên cứu các công cụ tài chính như bảo lãnh vốn, chia sẻ
rủi ro, hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp thực hiện; Nghiên cứu đề xuất các công
cụ tài chính hỗ trợ hoạt động thu xếp vốn đầu tư, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro đầu
tư, cơ chế huy động vốn; Cung cấp vốn và trợ giúp kỹ thuật thông qua Công ty
dịch vụ tư vấn năng lượng (ESCO) cho các dự án tiết kiệm năng lượng và có
tính khả thi về tài chính nhưng thiếu vốn ban đầu và đang tìm kiếm nguồn vốn ưu
đãi, thúc đẩy đầu tư tiết kiệm năng lượng thông qua các hình thức đa dạng
khác nhau bao gồm đầu tư mạo hiểm, vốn tự có, thuê tài sản, tín dụng carbon,
quỹ bảo lãnh tín dụng và trợ giúp kỹ thuật.
Đối với các vấn đề liên
quan đến quản lý hiệu suất năng lượng của phương tiện thiết bị kinh doanh trên thị trường (Quy định tại
Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 40) cần: Rà soát, nghiên cứu cơ chế ưu đãi để
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các sản phẩm hiệu suất cao hơn
có tính định hướng thị trường, từng bước loại bỏ các phương tiện, thiết bị, sản
phẩm sử dụng năng lượng hiệu suất thấp; Bổ sung quy định Nhãn hiệu suất năng
lượng cao nhất để đẩy nhanh chuyển đổi thị trường sang sản phẩm tiết kiệm năng
lượng; Bổ sung dán nhãn năng lượng cho nhóm Vật liệu xây dựng: sản phẩm kính,
gạch không nung, ….
Đối với các chính sách
về tăng cường phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động sử dụng
năng lượng TK&HQ cần: Tăng cường phân cấp quản lý Nhà nước trong lĩnh vực
sử dụng năng lượng TKHQ giữa các cơ quan Trung ương và địa phương, quy định cụ
thể vai trò và trách nhiệm của cơ quan đầu mối quốc gia, các Bộ, ngành liên
quan và địa phương, đặc biệt là vai trò đầu mối tổ chức triển khai toàn bộ hoạt
động sử dụng năng lượng TK&HQ của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Bổ sung quy định cụ thể của Bộ, ngành và UBND các tỉnh về mua sắm trang
thiết bị tiết kiệm năng lượng trong các dự án đầu tư từ ngân sách Nhà nước;
Phân cấp việc quản lý hoạt động dán nhãn năng lượng đối với sản phẩm thuộc lĩnh
vực xây dựng và phương tiện giao thông vận tải cho Bộ Xây dựng và Giao thông
vận tải (liên quan đến Điều 39 Luật SDNL TK&HQ); Tăng cường công tác hậu
kiểm của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động sử dụng năng lượng
TK&HQ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của cộng đồng, tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc trong trong thực tế thi hành; Hoàn thiện quy trình
phân cấp phối hợp tổ chức thống kê trong lĩnh vực sử dụng năng lượng (bao gồm
cả lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải) theo quy định tại Luật thống kê (Số
89/2015/QH13); đồng thời, kiện toàn mạng lưới thống kê tại các địa phương, có
chế tài đối với tổ chức và cá nhân vi phạm.
Kể từ khi Luật Sử dụng năng lượng TK&HQ cùng một hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực, đã thúc đẩy sự vào cuộc của hệ thống
chính trị trên phạm vi toàn quốc, đã làm thay đổi nhận thức và hành vi của
toàn xã hội. Các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức chính trị xã hội nhiệt tình
ủng hộ và hăng hái vào cuộc tham gia các hoạt động hiệu quả năng lượng. Các
hoạt động có tính lan tỏa rộng rãi phải kể đến như “Cuộc thi hộ gia
đình tiết kiệm điện” do Hội phụ nữ các cấp tiến hành hoặc Chương trình “Giờ
trái đất” được đông đảo hội thanh niên, sinh viên các trường đại học tham gia
hưởng ứng…
Ông Phương Hoàng Kim, Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát
triển bền vững (Bộ Công thương), Chánh văn phòng Ban Chỉ đạo Tiết kiệm năng
lượng cho biết, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả còn là giải pháp
quan trọng đóng góp vào việc thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần
thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(COP 26) về thực hiện lộ trình giảm phát thải khí nhà kính về 0 vào năm 2050.
|
Tác giả: Tố Quyên
Nguồn tin: tietkiemnangluong.com.vn