Điện gió: Cơ hội để hình thành ngành công nghiệp phụ trợ năng lượng tái tạo
Cần từ 5 đến 10 năm để "cất cánh"
Chia sẻ tại toạ đàm
"Đầu tư điện gió trong bối cảnh mới", về tiềm năng phát triển điện
gió tại Việt Nam, ông Nguyễn Văn Vy – Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam
cho biết: Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió rất lớn, với tổng tiềm năng
kỹ thuật đạt 377GW, trong đó điện gió trên bờ khoảng 217GW, và 160GW điện gió
ngoài khơi.
Cũng theo ông Vy, trọng
tâm chuyển đổi phát triển năng lượng giai đoạn 2030-2050 của Việt Nam sẽ tập
trung vào phát triển điện sạch, kết hợp với công nghệ số giúp tận dụng tối đa
năng lượng tái tạo với chi phí thấp ngày càng tăng. Đồng thời, gia tăng nhanh
việc sử dụng điện sản xuất từ NLTT trong phát triển kinh tế xã hội. Theo đó,
thúc đẩy phát triển NLTT, đặc biệt là điện gió là giải pháp tối ưu.
Ông Vy cũng chỉ ra, hiện
điện gió đã được phê duyệt quy hoạch 11.800MW, có 84 nhà máy với tổng công suất
khoảng 4.000MW đã vận hành thương mại (COD) trước 31/10/2021. Đây là một nỗ
lực rất lớn của các cơ quan ban ngành cũng như nhà đầu tư trong bối cảnh nhiều
khó khăn của dịch Covid-19. Tuy nhiên, hiện vẫn còn 37 dự án với tổng công suất
khoảng 2.455MW đã đăng ký nhưng không kịp COD, điều này đang gây nhiều khó khăn
cho các doanh nghiệp và rất cần các biện pháp tháo gỡ từ Chính phủ.
|
Toạ đàm có sự tham gia của nhiều nhà khoa học,
chuyên gia và nhà đầu tư theo hình thức trực tiếp và trực tuyến
|
Mặc dù có tiềm năng
lớn, song theo ông Vy, NLTT vẫn còn nhiều khó khăn bất cập, cụ thể như chưa có
chính sách dài hạn nhằm tạo ra môi trường đầu tư ổn định, còn thiếu các quy
chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng cho các công nghệ NLTT. Giá FIT được áp dụng chung
cho các dự án không phân biệt quy mô sẽ dẫn đến hạn chế nguồn lực cho phát
triển. Bên cạnh đó, thủ tục chuyển đổi đất để thực hiện các dự án còn nhiều
phức tạp.
Đồng quan điểm, ông
Nguyễn Anh Tuấn – chuyên gia năng lượng, nguyên Giám đốc Trung tâm NLTT Bộ Công
Thương cho biết, nhìn nhận thực tế thời gian qua, trong chiến lược phát triển,
khuyến khích điện năng lượng tái tạo (trong đó có điện gió) của Chính phủ đã
cho thấy sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đầu tư và công suất các dự án, làm
thay đổi tỷ trọng công suất điện NLTT tham gia vào tổng công suất phát điện
quốc gia.
"Thực tế, nhờ các
chính sách ưu đãi của Chính phủ, điện gió giai đoạn từ 2011-2021 đã phát triển
đột phá, đặc biệt vào năm 2021. Từ khoảng 30 MW vào năm 2012, đến năm 2021, điện
gió đã có sự bùng nổ với hơn 4.800 MW đưa vào hoạt động" - ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết.
Với đánh giá tiềm năng
và sự bùng nổ như thời gian qua, có thể thấy, tại dự thảo Quy hoạch điện VIII,
đến 2045, vai trò phát triển của điện gió, gồm điện gió trên bờ và ngoài khơi
sẽ phát triển nhanh chóng. "Nhìn tổng thể, sự phát triển bùng nổ
của điện gió thời gian qua nhờ có sự hỗ trợ tích cực của chính sách. Tuy nhiên,
để tiếp tục phát triển cần có sự hỗ trợ, tìm kiếm những chính sách, công cụ
mạnh hơn để đẩy nhanh phát triển điện gió ngoài khơi. Vì dù có tiềm năng, song
hiện tất cả mới chỉ là tiềm năng về kỹ thuật, và chưa phải là tiềm năng kinh
tế" - ông Tuấn cho biết.
Cũng tại toạ đàm, các
chuyên gia cũng chỉ ra những khó khăn, thách thức hiện nay khi phát triển điện
gió như so với điện mặt trời, điện gió phức tạp hơn nhiều về kỹ thuật, thời
gian thi công thường kéo dài từ 2-3 năm, trong khi điện mặt trời chỉ nửa năm.
Ngoài ra, vấn đề đầu tư cũng cao hơn nhiều, để giảm giá thành điện gió phải có
công suất lớn, và với năng lực của các nhà đầu tư trong nước rất khó để huy
động. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài
khơi, chưa có dịch vụ phụ trợ, tỉ lệ nội địa hoá... vẫn là những câu hỏi lớn
cần giải đáp.
Do đó, theo ông Tuấn,
cần lựa chọn con đường phát triển điện gió vào từng thời điểm hợp lý. "Hiện
điện gió Việt Nam được đánh giá mới đang trong giai đoạn chuẩn bị, và cần 5 đến
10 năm nữa để chúng ta có thể "cất cánh". Vì vậy, để đi vào giai đoạn
sau cần có một loạt chính sách, cơ chế tài chính phù hợp, bền vững; triển khai
công nghệ phải được phát triển tương đối cụ thể, ít thay đổi với những mục tiêu
rõ ràng, ổn định. Đặc biệt, Việt Nam cần lựa chọn cơ chế chia sẻ rủi ro, đây là
chìa khoá để thúc đẩy đầu tư tư nhân trong phát triển điện gió, nhằm giảm thiểu
rủi ro cho nhà đầu tư" - ông Tuấn bày tỏ quan điểm.
Chia sẻ thêm ở góc độ
của nhà đầu tư, ông Nguyễn Đức Cường – chuyên gia cao cấp về năng lượng của tập
đoàn T&T – cho biết, với nhu cầu điện của Việt Nam sẽ ngày càng tăng trong
tương lai, đặc biệt, theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26 nhằm thực
hiện Net Zero vào 2050 đã đặt ra bài toán cơ cấu nguồn điện của Việt Nam để
thích ứng.
Và việc thúc đẩy phát
triển NLTT, trong đó ưu tiên phát triển điện gió là giải pháp quan trọng tạo
công ăn việc làm mới, góp phần đa dạng nguồn cung, an ninh năng lượng, giảm
phải khí nhà kính, và có vai trò thiết thực trong giai đoạn đến năm 2030 và sau
năm 2030 ở Việt Nam.
Thúc đẩy hình thành
ngành công nghiệp mới
Ông Cường khẳng định,
với công nghệ mang tính chuyển đổi, hệ số công suất cao (45-55%), tương đương
Tmax nhiệt điện khí/than, sản lượng điện đầu ra ổn định theo thời gian- có thể
chạy nền… điện gió ngoài khơi sẽ sớm hình thành một ngành công nghiệp công nghệ
cao mới trong nước. Đây cũng là cơ hội hình thành, phát triển khu/ngành công
nghiệp phụ trợ NLTT.
"Đặc biệt, với sự
phát triển công nghệ, giảm giá thành cùng với xu thế chuyển dịch năng lượng,
ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi sẽ sớm phát triển mạnh mẽ trong tương
lai. Do đó, quy mô điện gió ngoài khơi đến 2030 cần đạt khoảng 10GW. Với quy mô
này sẽ giúp định hình ngành công nghiệp phụ trợ nội địa, giảm chi phí đầu
tư" - ông Cường cho hay.
Bên cạnh đó, chỉ ra
những tồn tại, ông Cường cho rằng, dù có tiềm năng lớn nhưng việc khai khác
điện gió ngoài khơi còn nhiều thách thức và vẫn chưa được khai thác đầy đủ.
Bởi, điện gió ngoài khơi vẫn là lĩnh vực đầu tư còn mới ở Việt Nam, hiểu biết
còn hạn chế từ nhà quản lý đến nhà đầu tư. Nhiều địa phương thiếu quy hoạch
không gian biển, khó khăn trong thực hiện thủ tục xin cấp phép, quy mô chưa
thực sự đủ lớn để hình thành một ngành công nghiệp. Do đó, cần sự quan tâm, hỗ
trợ mạnh mẽ từ các cơ quan nhà nước và Chính phủ. Đặc biệt, cần cơ chế giá ổn
định để hỗ trợ thúc đẩy ngành năng lượng xanh, sạch này trong tương lai.
Đặc biệt, tại hội thảo,
nhiều chuyên gia, doanh nghiệp cũng đã đề cập đến việc đề xuất cơ chế, chính
sách hỗ trợ liên quan đến bài toán tài chính kinh doanh khi chủ đầu tư đối mặt
với nhiều rủi ro, cụ thể như có cơ chế riêng cho các dự án được giãn tiến độ
COD khi không kịp vận hành thương mại trước 31/10/2021, đặc biệt Chính phủ cần
sớm thống nhất giá FIT, thời gian gia hạn như thế nào để doanh nghiệp có cơ sở
để triển khai.
Góp ý thêm, ông Vy cho
rằng, cần sớm ban hành cơ chế đấu thầu phát triển các dự án NLTT theo các bước,
xác định khối lượng cần đầu tư xây dựng các dự án điện trong từng năm, từng
vùng, miền nhằm tránh quá tải cho các đường dây. Các dự án được chọn trên cơ sở
giá đề xuất từ thấp đến cao cho đến khi đủ công suất theo yêu cầu.
Về giải pháp, cần hoàn
thiện khuôn khổ chính sách cho phát triển NLTT; tổ chức chuẩn bị thẩm định và
phê duyệt quy hoạch phát triển NLTT. Đồng thời, xây dựng và ban hành áp dụng
hoặc công bố áp dụng tiêu chuẩn quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật NLTT; ban hành
cơ chế chính sách phát triển đồng bộ hệ thống truyền tải và phân phối điện; kết
hợp chính sách ưu đãi với cơ chế thị trường.
Nhìn về triển vọng tương
lai, ông Tuấn cho rằng, chúng ta đang chứng kiến chuyển dịch năng lượng, sử
dụng năng lượng hoá thạch sang năng lượng xanh, sạch. Đây cũng là xu hướng chung
của thế giới, tuy nhiên, đẩy nhanh hay chậm, từng giai đoạn triển khai như thế
nào thì chúng ta cần cân nhắc để không ảnh hưởng đến nền kinh tế và vừa phải
đáp ứng hoà nhập với quốc tế. Và để NLTT đáp ứng 70-80% trong cơ cấu nguồn điện
vào năm 2050 thì cần cân nhắc đến bài toán kinh tế, cái giá phải trả và điều
kiện kèm theo là gì? Do đó, cần giải pháp chi tiết, cụ thể rõ ràng cho từng
thời điểm, giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Tác giả: Đỗ Nga
Nguồn tin: theo congthuong.vn