Chia sẻ tại hội thảo
“Chuyển dịch năng lượng Việt Nam – cơ hội và thách thức” được tổ chức trong
khuôn khổ Dự án “Một số nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu năng lượng gắn với
phát triển hạ tầng năng lượng hiệu quả và bền vững phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, ông Nguyễn Anh
Tuấn – chuyên gia độc lập đã trình bày tham luận về các đòn bẩy chính sách quan
trọng cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Anh
Tuấn, chuyển dịch năng lượng thường được hiểu là sự chuyển đổi cơ cấu hệ thống
năng lượng từ các nguồn phát thải các-bon cao, sử dụng nhiên liệu hoá thạch
sang hệ thống năng lượng sạch, với sự gia tăng năng lượng tái tạo (NLTT). Chiến
lược phát triển các-bon thấp là cam kết quốc tế mà các nước đang hướng tới.
Với tư duy trước đây cho
rằng, các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam phải theo đuổi một lộ trình phát
triển các-bon cao trước khi chuyển sang một tương lai các-bon thấp. Tuy nhiên,
ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, đây là tư duy chưa đúng, bởi ngày nay có bằng
chứng chỉ ra rằng, một chiến lược phát triển các-bon thấp sẽ tạo ra một lộ
trình nhanh hơn, ít tốn kém hơn và thông minh hơn để thúc đẩy phát triển kinh
tế.
|
Ông Nguyễn Anh Tuấn – chuyên gia độc lập trình
bày tham luận tại hội thảo
|
Từ các cơ sở lý thuyết
và thực tiễn, nhóm tư vấn đã xây dựng định hướng và chiến lược phát triển cơ sở
hạ tầng năng lượng bền vững cho Việt Nam, đồng thời đưa ra các căn cứ để ra
quyết định chiến lược chuyển dịch năng lượng của Việt Nam trong tương lai.
"Theo đó, thông qua
phân tích về xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới, kinh nghiệm của các
quốc gia toàn cầu cũng như bối cảnh phát triển năng lượng tại Việt Nam, nhóm tư
vấn đã đề xuất 87 chính sách cụ thể, 17 nhóm chính sách quan trọng và 3 đòn bẩy
chính sách, làm nền tảng thúc đẩy chuyển dịch năng lượng bền vững của Việt Nam
trong tương lai" - ông Tuấn thông
tin.
Cụ thể, 3 đòn bẩy chính
sách cho chuyển dịch năng lượng gồm: Đòn bẩy thứ nhất là kế
hoạch và chiến lược thúc đẩy năng lượng sạch, với 5 nhóm chính như: Lập kế
hoạch và mục tiêu cho NLTT, cơ chế chính sách cho NLTT, hỗ trợ công nghiệp liên
quan, nâng cao tính linh hoạt cho NLTT và chiến lược các-bon thấp cho giao
thông vận tải (GTVT).
Theo đó, nhóm tư vấn
cũng đã đưa ra một số chính sách quan trọng trong ngắn hạn cho đòn bẩy này như,
yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá hoặc ưu đãi về hàm lượng nội địa phải là một
phần trong nội dung thiết kế đấu thầu trong tương lai (ví dụ tiến hành đánh giá
các hồ sơ dự thầu dựa trên nhiều tiêu chí, không đánh giá "chỉ dựa trên
giá"). Ngoài ra, việc tiếp tục giữ biểu giá FIT cho dự án quy mô vừa (ví dụ
dưới 10MW) có thể tạo ra phân khúc thị trường khuyến khích các đơn vị trong
nước tham gia.
Bên cạnh đó, khuyến
khích chuyển dịch sang các phương thức vận tải sạch hơn, bao gồm xe điện và xe
điện hai bánh, ba bánh. Để hiện thực hoá được việc này trong trung hạn thì cần
xây dựng chính sách từ bây giờ.
Về trung và dài hạn, cần
nâng cao hơn các mục tiêu NLTT hiện có để đảm bảo rằng chuyển dịch năng lượng ở
Việt Nam vẫn theo đúng các mục tiêu của Hiệp định Khí hậu Paris và phù hợp với
các nước khác trong khu vực; Mở rộng các mục tiêu năng lượng sang cả các ngành
GTVT và nhiệt lạnh. Đồng thời, ban hành các quy định về tỷ lệ nội địa hoá hoặc
cơ chế khuyến khích - thường là chi phí phần trăm trên tổng chi phí dự án và
tăng dần theo thời gian.
Đối với đòn bẩy
thứ hai, là giảm sâu phát thải CO2, gồm 7 nhóm chính sách như: Chiến lược
và kế hoạch các-bon thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, cơ chế định
giá các-bon, tiêu chuẩn phát thải và giảm trừ điện than, chuyển dịch thị trường
lao động và phi các-bon hoá cho GTVT.
Ở đòn bẩy này, nhóm tư
vấn đã đưa ra một số chính sách quan trọng như, trong ngắn hạn cần tăng cường
các biện pháp hiệu quả năng lượng thông qua đầu tư công vào các biện pháp tiết
kiệm năng lượng tại các toà nhà công cộng; Ngừng mua sắm các phương tiện sử
dụng động cơ đốt đối với tất cả các xe công vụ trong thời gian cụ thể.
Về trung hạn, cần đưa ra
một mức thuế các-bon tương đối thấp, tập trung vào ngành điện và GTVT; lập lộ
trình chuyển đổi dần các nhà máy điện than hết niên han để các đơn vị quản lý
vận hành nhà máy có thời gian điều chỉnh tình hình tài chính và xây dựng lộ
trình giảm sâu phát thải các-bon.
Về dài hạn, mở rộng quy
hoạch điện trở thành một quy hoạch tài nguyên tổng hợp đang được áp dụng rộng
rãi trên thế giới; Xác định một lộ trình rõ ràng để tăng mức thuế các-bon theo
thời gian để điều chỉnh mức giá phù hợp theo các mục tiêu tại hiệp định Paris.
Và đòn bẩy thứ
ba là cơ sở hạ tầng, gồm 5 nhóm chính như: Chính sách cho hệ thống
lưới phân phối, chính sách cho hệ thống lưới truyền tải, chính sách phát triển
lưới điện thông minh, lưu trữ năng lượng và nâng cao tính linh hoạt cho hệ
thống điện và khả năng chuyển đổi cho hạ tầng LNG.
Đối với nhóm đòn bẩy
này, các chính sách được đề xuất trong ngắn hạn gồm tiếp tục chuẩn hoá quy
trình đăng ký đấu nối với các hệ thống điện mặt trời quy mô nhỏ và các trạm sạc
xe điện. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển LNG phù hợp với chiến lược
giảm phát thải các-bon dài hạn.
Bên cạnh đó, trong trung
hạn cần bổ sung phân tích khả năng rủi ro mắc kẹt tài sản và đề xuất phương án
có thể chuyển đổi mục đích sử dụng hạ tầng liên quan đến LNG trong các quy
hoạch dài hạn.
Ông Nguyễn Anh Tuấn cũng
lưu ý: Một chiến lược phát triển các-bon thấp cũng cần thiết để đảm bảo an ninh
năng lượng ở Việt Nam. Hiện chúng ta đang là một quốc gia nhập khẩu lớn về dầu
mỏ và than, và sẽ trở thành quốc gia nhập khẩu lớn về khí thiên nhiên. Các xu
hướng này tiếp tục làm suy giảm an ninh năng lượng của Việt Nam, khiến quốc gia
dễ bị tổn thương trước các yếu tố ngoại cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát.
"Tuy nhiên, trong
xu hướng chung, Việt Nam nên giảm dần đầu tư vào các ngành phát thải nhiều
các-bon và chuyển qua mô hình năng lượng sạch hơn" - ông Nguyễn Anh Tuấn đưa ra kiến nghị.
Ông Nguyễn Anh Tuấn cho
rằng, nhiều bằng chứng cho thấy rõ, chuyển dịch năng lượng toàn cầu sẽ tạo ra
nhiều việc làm và cơ hội hơn so với lộ trình phát thải nhiều các-bon, nâng cao
sức khoẻ cho con người thông qua việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường độc hại và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, các nước theo
đuổi chiến lược các-bon thấp sẽ có cơ hội cao hơn để phát triển nền kinh tế
thịnh vượng mới của thế kỷ 21. Nếu chuyển dịch năng lượng được thực hiện tốt ở
Việt Nam thì có thể thúc đẩy quốc gia đạt được mục tiêu về phát triển kinh tế,
năng lượng, môi trường. Đó là một phần quan trọng trong tầm nhìn dài hạn và
toàn diện mà Việt Nam cần hướng tới.
Tác giả: Đỗ Nga
Nguồn tin: theo congthuong.vn